Viêm vú và số lượng tế bào Soma
Viêm vú có thể là viêm lâm sàng hoặc cận lâm sàng. Trong cả hai trường hợp, phản ứng viêm xảy ra và tính thấm của các mao mạch tăng lên để cho các tế bào bạch cầu chống lại sự nhiễm trùng. Do đó, số lượng tế bào soma trong sữa tăng và chất lượng sữa giảm xuống.
Trong trường hợp lâm sàng, viêm vú dẫn đến giảm năng suất sữa, thậm chí gây tử vong trong trường hợp xấu nhất. Nó chiếm 5% đàn. Trong trường hợp cận lâm sàng, không có dấu hiệu lâm sàng nhưng chúng ta thấy số lượng tế bào soma tăng lên. Nó chiếm 40% đàn và hậu quả kinh tế là rất lớn (Hình 1).
Hình 1 : Các loại viêm vú
Cạn sữa là khoảng thời gian bò không tiết sữa, là giai đoạn thích hợp cho việc chữa trị và ngăn ngừa bệnh nếu nó được quản lý đúng cách.
Cạn sữa: chuyện gì xảy ra?
Trong giai đoạn cạn sữa, người chăn nuôi cần dừng việc vắt sữa và ngừng cho ăn thức ăn tinh. Bò sẽ nhanh chóng ngừng sản xuất sữa và tuyến vú bắt đầu teo lại. Giai đoạn này là thời gian nghỉ ngơi cho bầu vú và năng lượng để sản xuất sữa thường được sử dụng cho sự miễn dịch và tái tạo mô.
Bầu vú teo trong vòng khoảng 3 tuần. Trước khi sinh 3 tuần, bầu vú bắt đầu hoạt động lại để tạo ra các nang sữa mới. Đó là lý do tại sao thời kỳ cạn sữa phải kéo dài ít nhất là 6 tuần.
Khi bầu vú teo, vú phải tổng hợp một nút keratin để ngăn chặn sự lây nhiễm từ bên ngoài. Quá trình này có thể mất 2 hoặc 3 tuần và nếu không có nút đó, bạn có thể thấy sữa sẽ bị rò rỉ ra từ núm vú. Giai đoạn cận đẻ (3 tuần trước khi đẻ), vú rất dễ bị nhiễm khuẩn vì nó đã bắt đầu hoạt động lại (tạo sữa non) và khi đó nút keratin rất dễ bị rơi. Những tác nhân gây bệnh có thể đi vào bên trong vú (Hình 2).

Hình 2: Nguy cơ nhiễm trùng theo thời gian đẻ1
Thông thường chúng ta điều trị kháng sinh cho vú trong thời kì cạn sữa. Có hai chiến lược: Điều trị hệ thống hoặc điều trị chọn lọc. Trong trường hợp đầu tiên, sử dụng kháng sinh cho toàn đàn. Trong trường hợp thứ hai, sử dụng một mầm bệnh đặc trị (sau khi làm kháng sinh đồ) hoặc chọn những con bò có nguy cơ nhiễm bệnh cao để điều trị. Không thể chọn lọc mà không có sự kiểm soát sữa hàng tháng.
Để kiểm tra xem chiến lược tốt như thế nào, chúng ta có thể đo hiệu quả của việc điều trị bằng hai chỉ số:
Điều trị hệ thống là một mối quan tâm lớn vì nó sử dụng kháng sinh nên khả năng kháng kháng sinh của bò và dư lượng trong sữa cao. Dư lượng này làm tăng sự kháng kháng sinh trong đường tiêu hóa của bê con khi được nuôi bằng sữa đó. Ngày nay, phương pháp bơm nút vào núm vú bò có thể được sử dụng để giúp bò có thể tổng hợp nút thắt. Nút này phải được sử dụng cẩn thận (nhẹ nhàng, khử trùng núm, không mát-xa) để có hiệu quả tốt nhất. (Hình 3)
Dinh dưỡng và quản lý là những bước đầu tiên để ngăn ngừa và điều trị nhiễm trùng trong thời kỳ cạn sữa, giảm viêm vú xảy ra trong giai đoạn tiết sữa sớm và giảm sử dụng kháng sinh
1) Cân bằng năng lượng âm (NEB) rõ ràng làm ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch của bò sữa. NEB gây ra bệnh ketosis và tăng thể ketone. Những phân tử này làm giảm khả năng thực bào của các tế bào bạch cầu. Trong trường hợp bệnh ketosis, bò nằm nhiều hơn do đó làm tăng tỷ lệ nhiễm bệnh do thời gian tiếp xúc giữa bầu vú và nền sàn lâu hơn. Lượng ăn vào phải được gia tăng trong thời kỳ cạn sữa nhờ lượng cỏ thô ăn vào và tiêu hóa được cao.
Nhưng quan trọng nhất là phải sử dụng một loại thức ăn chuyên biệt: một quá trình chuyển đổi thức ăn phải được thực hiện 3 tuần trước khi đẻ để tăng sự hấp thu năng lượng cho bò.
Đồng thời, mật độ năng lượng nên bắt đầu được tăng lên trong thời gian cận đẻ và được tăng tối đa trong giai đoạn tiết sữa sớm.
2) Căng núm vú xảy ra trước khi sinh. Vú căng lên, không thể vắt sữa hoàn toàn và máy sữa có thể dễ dàng bị rơi trong quá trình vắt sữa. Sự căng có thể là do sự dư thừa natri hoặc kali trước khi vắt sữa. Natri Bicarbonate hoặc muối phải được loại bỏ hoặc được kiểm soát tối đa đối với muối là 20g / ngày. Nếu bạn cho bò cận đẻ ăn khẩu phần của bò tiết sữa thì bạn phải chắc chắn rằng không vượt quá giá trị đó.
3) Vitamin E và Selen là loại vitamin và khoáng chất quan trọng nhất. Các chất này giúp vi sinh vật có thể đối mặt với tình trạng căng thẳng oxy. Vitamin E bảo vệ lipit khỏi nồng độ các gốc tự do cao trong mô tế bào. Selen là một thành phần của peroxidase glutathion, loại enzyme có liên quan đến khả năng tiêu diệt gốc tự do. Vitamin A và C nên được cung cấp vào khẩu phần với tác dụng chống oxy hóa.
4) Đồng và kẽm đóng một vai trò trong quá trình hình thành nút keratin giữa thời kỳ tiết sữa và cạn sữa. Chúng giúp làm giảm nguy cơ viêm vú. Nguyên tố vi lượng hữu cơ phải được ưu tiên để hấp thụ tốt hơn.
5) Magiê đóng một vai trò trong sự săn chắc của cơ trơn như núm vú. Hypomagnesemia làm tăng sự xâm nhập của mầm bệnh. Tại thời điểm này magiê (dạng clorua) rất hữu ích cho việc kiểm soát cân bằng Anion Cation trong khẩu phần ăn.
6) Axit béo mạch trung bình dạng este hóa như monolaurin cho thấy hiệu quả mạnh mẽ đối với vi khuẩn gram + như Staphylococcus Aureus hoặc họ Streptococci, các tác nhân gây bệnh chính gây ra viêm vú. Chúng có thể phá vỡ màng và tiêu diệt mầm bệnh. Hợp chất này có nguồn gốc từ dừa và hạt cọ dầu. Nó thực sự là một giải pháp đầy hứa hẹn và độc đáo trong việc kiểm soát tế bào soma và viêm vú.
Mỗi lứa sữa được sản xuất nhiều hơn tại đỉnh điểm tiết sữa đại diện cho mức tăng 200L trên toàn bộ chu kỳ tiết sữa. Bò không nên bị bệnh trước thời điểm tiết sữa đỉnh điểm để có thể cho sữa tốt nhất. Các thông số khác phải được kiểm tra (máy vắt sữa, môi trường, vệ sinh,…) tuy nhiên, việc quản lý dinh dưỡng thích hợp trong thời kỳ cạn sữa và cận đẻ là bước đầu tiên để tránh viêm vú trong quá trình tiết sữa. Đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để thiết kế một khẩu phần ăn thích hợp cho thời kỳ cạn sữa và cận đẻ.
The Rumicle chuyên đề về bò từ Nutrispices
Tháng 9, 2018 - Số 6