VIÊM VÀ BÃO CYTOKINE
Viêm là một phản ứng sinh học phức tạo của các tế bào đối với một kích thích có hại như là nhiễm trung hay tổn thương mô. Chức năng của viêm là loại bỏ những nguyên nhân gây ra tổn thương tế bào, loại bỏ những tế bào hoại tử và những mô bị tổn thương do chấn thương hoặc nhiễm trùng. Cuối cùng, viêm khởi động quá trình phục hồi mô.
Cytokine là một loại protein nhỏ có chức năng quan trọng trong việc truyền tín hiệu tế bào và kích hoạt hệ miễn dịch. Trong quá trình viêm, chúng được sản xuất ồ ạt và rất cần thiết trong giao tiếp tế bào. Những phân tử này có thể gây viêm hoặc kháng viêm tùy vào loại cytokine và tình trạng cơ thể.

Hình 1. Bão cytokine trong quá trình nhiễm trùng (Castelli và cộng sự, 2020)
Quá trình viêm gồm giai đoạn bắt đầu, giữa và cuối. Mục đích chính của cơ thể là phản ứng nhanh nhất có thế khi có kích thích để tránh tổn hại sức khỏe và sau đó nhanh chóng giảm cường độ của phản ứng miễn dịch. Điều này sẽ giúp cơ thể trở về trạng thái cân bằng nội mô và tránh việc tiêu hao quá nhiều năng lượng.
TRƯỜNG HỢP BÒ Ở GIAI ĐOẠN CHUYỂN TIẾP
Bò sau sinh phải đối mặt với nhiều thay đổi so với bò mang thai: việc ăn uống thất thường, lưu thông máu bị thay đổi, sinh trưởng của mô (gan và tuyến vú) và dị hóa (mô mỡ, cơ và xương). Về bản chất, sinh nở là một quá trình đầy thử thách đối với bò, sinh nở khiến tình trạng viêm nhiễm lên đỉnh điểm. Những con bò đã từng mắc bệnh hoặc khó đẻ thường bị viêm nhiễm nhiều. Nếu tình trạng viêm này diễn ra trong thời gian dài hoặc một cách mất kiểm soát, nó có thể làm giảm khả năng sinh sản hoặc chất lượng sữa (Hình 2). Việc cần làm là phải theo dõi và kiểm soát quá trình viêm này để tránh các biến chứng được mô tả dưới đây.
Để giải quyết vấn đề viêm nhiễm này, cần bổ sung các tiền chất kháng viêm.

Hình 2. Giả thuyết về các đáp ứng để giải quyết và không giải quyết quá trình viêm trong giai đoạn đầu tiết sữa (Bradford và cộng sự, 2015)
LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC AXIT BÉO CHƯA BÃO HÒA TRÊN THÚ NHAI LẠI
Omega 6 và Omega-3 cùng được biết đến là các axit béo chưa bão hòa (Poly Unsaturated Fatty Acid, PUFA). Tuy nhiên, Omega-6 là chất gây viêm và Omega-3 là chất kháng viêm.
Omega-3 là tiền chất của phân tử chuyên biệt có tên là Pro Resolving Lipid Mediator (SPMs). SPM ức chế sự tổng hợp các cytokine gây viêm thông qua việc điều chế một con đường gây viêm có tên là con đường NF-kB.
Silvestre và cộng sự (2011) cho thấy thành phần Omega-3 của lymphocytes tăng lên khi bò sữa được bổ sung Omega-3. Khi bò bị cảm nhiễm với lipopolysaccharide, các tác giả thấy rằng việc sản xuất Yếu tố hoại tử khối u α (Tumor Necrosis Factor α, TNF-α là một interleukin gây viêm, thường được sử dụng làm dấu ấn sinh học của quá trình viêm nhiễm) giảm so với những bò được cho ăn dầu cọ. Hơn nữa, có bằng chứng cho thấy quá nhiều Omega-6 có thể ức chế tác dụng kháng viêm của Omega-3 (Hathaway và cộng sự 2020). Vì Omega 6 và Omega 3 đều cần thiết để cho một phản ứng miễn dịch hoàn chỉnh, nên giải pháp sẽ là sự cân bằng giữa hai loại PUFA đó. Tỷ lệ Omega-6 và Omega-3 phải ở mức 5 trong khẩu phần ăn của bò ở giai đoạn chuyển tiếp. Ngô, đậu nành, ngô ủ chua, hạt bông vải rất giàu Omega 6 và hiện đang là một phần chính trong khẩu phần ăn của bò.
Đối với bò ở giai đoạn chuyển tiếp, Omega-3 có thể được cung cấp qua khẩu phần ăn. Hạt lanh là một trong những nguồn Omega-3 dồi dào nhất.Cũng như những nguồn chất béo chưa bão hòa khác, hạt lanh khi được đưa vào hệ tiêu hóa mà không được bảo vệ sẽ bị phân hủy bởi quá trình hydro hóa sinh học. Quá trình hydro hóa sinh học có thể gây ra hội chứng suy giảm chất béo trong sữa vì thế, làm giảm giá trị kinh tế của sữa. Một số quy trình sản xuất đặc biệt như cùng ép đùn hạt lanh và đậu Hà Lan giúp tạo ra một ma trận chất béo/protein, cung cấp sự bảo vệ cần thiết cho chất béo khi đi qua dạ cỏ mà khỏi quá trình hydro hóa sinh học. Chất béo từ hạt lanh trở thành chất béo “bypass” và bò có thể sử dụng được nguồn béo này.

Cung cấp nguồn Omega-3 phù hợp tring giai đoạn chuyển tiếp là một cách triển vọng để giúp bò vượt qua viêm nhiễm liên quan đến việc sinh nở. Đây là một biện pháp phòng ngừa và cần được thực hiện trong một thời gian dài nhưng nó chắc chắn sẽ cải thiện tuổi thọ và sức khỏe của bò. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần hiểu rõ hơn về tác động của hội chứng viêm nhiễm này để phát triển các chiến lược dinh dưỡng hiệu quả nhất.

|